Các loại đồng hồ phổ biến trong lịch sử
Đã đăng vào 15/03/2013 lúc 15:14Nhiều nền văn minh cổ trên trái đất sử dụng những hiện tượng thiên văn như mặt trời, mặt trăng để xác định ngày tháng và các mùa. Ngày nay người hiện đại sử dụng hệ thời gian 60 (1 giờ có 60 phút, 1 phút có 60 giây).
Thực ra phương pháp đo thời gian hệ 60 đã xuất hiện từ 4000 năm trước tại vùng Mesopotamie (văn minh Lưỡng Hà – thuộc Trung Đông ngày nay) và Ai Cập; những hệ đo thời gian giống vậy cũng được phát triển sau đó ở vùng Trung Mỹ.
Những cuốn lịch đầu tiên có thể đã xuất hiện từ cuối kỷ băng hà khi những người thợ săn dùng gậy và xương để đánh dấu tuần trăng và mùa. Những vòng tròn đá (như Stonehenge ở Anh) được xây dựng ở khắp nơi trên thế giới đặc biệt là châu Âu thời tiền sử. Qua thời gian, con người đã phát minh ra hàng ngàn công cụ để đo đếm thời gian. Dưới đây là những chiếc đồng hồ gắn liền với các dấu ấn lịch sử của loài người:
Đồng hồ bóng đổ
Người Ai Cập cổ phát minh ra chiếc đồng hồ sử dụng một cột và tính toán thời gian dựa vào bóng đổ và các dấu hiệu khắc trên cột đứng đó. Tuy nhiên đồng hồ sử dụng bóng nhờ mặt trời nên không sử dụng được vào buổi tối hoặc khi trời âm u. Và họ lại phát minh ra một thiết bị đo thời gian gọi là merkhet. Merkhet là một chiếc gậy nhỉ được buộc thẳng đứng. Nơi thả chiếc gậy sẽ tương ứng với vị trí của sao Bắc cực và thời gian sẽ được tính toán dựa trên chuyển động của các tinh tú.
Đồng hồ nước
Có lý do để tin đồng hồ nước do người Ai Cập cổ phát minh ra đầu tiên. Chiếc đồng hồ nước cổ nhất được tìm thấy trong mộ của Amenemhet (một vị quan Ai Cập sống ở thế kỷ 16 TCN).
Có rất nhiều kiểu đồng hồ nước. Nhưng thường là một thiết bị đựng nước có lỗ nhỏ được đục để dòng nước chảy xuống thật đều, trên vật dụng đánh dấu khoảng cách để đo thời gian. Plato – nhà triết học Hy Lạp cổ đại cũng là người phát minh ra đồng hồ nước. Đồng hồ nước của Plato còn có thể báo thức. Đồng hồ nước cũng xuất hiện tại Trung Quốc từ thời nhà Ân. Sau đó có nhiều loại đồng hồ nước được cải tiến vào đời Hán (202 TCN) và kéo dài đến tận thời Tùy – Đường.
Đồng hồ cát
Đồng hồ cát cũng được cho là phát minh của người Ai Cập cổ. Cát được đóng kín trong một bình hai bầu thắt nhỏ ở giữa. Mỗi lần tính thời gian người ta quay ngược chiếc bình để cát từ từ chảy xuống. Kích cỡ của chiếc đồng hồ cát tỷ lệ thuận với độ dài thời gian.
Đồng hồ nến
Không ai biết đồng hồ nến bắt đầu được dùng từ khi nào. Nhưng tại Châu Âu nó được cho là dùng vào thời của vua Alfred vĩ đại (849-899). 6 cây nến làm từ 112gr sáp, mỗi cây nến dài 30cm được đặt trong một khung kim loại, trong khung đánh dấu mỗi 2cm. Mỗi cây nến cháy hết là 20 phút trôi qua.
Hương
Hương (hay nhang) cũng là một công cụ để tính thời gian được sử dụng từ trước CN. Người ta tính thời gian bằng cách tính số nhang đã đốt hay đoạn nhang đã cháy hết. Riêng tại Nhật Bản, các cô gheisa được trả tiền dựa trên số senkodokei (nhang) đã cháy hết trong thời gian họ phục vụ khách.
Đồng hồ thiên văn
Từ thế kỷ 11, nhà thiên văn Tô Tụng đã tạo ra một chiếc đồng hồ thiên văn chạy bằng sức nước và đặt tại phủ Khai Phong. Vào thế kỷ 10 các nhà thiên văn Ả rập cũng tạo ra đồng hồ thiên văn chạy bằng sức nước và đến thế kỷ 13 thì được Al-Jazari hoàn thiện. Chiếc đồng hồ thiên văn của Al-Jazari có thể hiển thị đường hoàng đạo, quỹ đạo của mặt trăng. Nó cũng có thể đặt lại độ dài của ngày và đêm vào mỗi ngày.
Đồng hồ mặt trời
Các nhà thiên văn Ả rập là người phát minh ra đồng hồ mặt trời. Đồng hồ mặt trời là một đĩa tròn được chia làm 12 phần bằng nhau, trên có một thanh kim loại và họ tính toán thời gian dựa trên bóng của thanh kim loại trên đĩa. Mỗi ngày được chia làm 12 phần bằng nhay như 12 tháng của năm. Vì vậy giờ cũng ngắn hơn vào mùa đông và dài hơn vào mùa hè.
Đồng hồ cơ khí
Ý tưởng về chiếc đồng hồ cơ khí hiện đại đã xuất hiện từ năm 1485 trên một bản vẽ tay của Leonardo" da Vinci. Cho tới những năm 1500, Peter Henlein (người Đức) tạo nên chiếc đồng hồ cơ khí đầu tiên. Cho tới những năm 1600, việc có đồng hồ đã trở thành phổ biến. 1704, người ta bắt đầu sử dụng đá quý cho động cơ đồng hồ cơ khí.
Đến 1780, Abraham Louis Perrelet phát minh ra máy tự động. Từ đó đến nay, có thêm nhiều phát minh cho đồng hồ cơ khí nhưng nguyên tắc hoạt động của loại đồng hồ này không thay đổi nhiều.
Đồng hồ điện tử
1957, Hamilton giới thiệu đồng hồ chạy pin đầu tiên trên thế giới. Đến năm 1970, Halmilton đưa "Pulsar" – chiếc đồng hồ điện tử đầu tiên. Nhưng đến năm 1972, khi Longines và Senko giới thiệu LCD (màn hình tinh thể lỏng), chiếc đồng hồ điện tử mới thực sự mang dung mạo của nó.
Đồng hồ nguyên tử
Người ta phát minh ra đồng hồ nguyên tử vào năm 1949. Chiếc đồng hồ điều chỉnh thời gian theo trạng thái dao động của nguyên tử. Tần số dao động của nguyên tử không đổi và đo được chính vì thế nên đồng hồ nguyên tử là loại đồng hồ chính xác nhất cho tới nay.
Phần chính của đồng hồ nguyên tử là một máy cộng hưởng vi sóng. Máy có thể tự điều chỉnh tần số và so sánh với tần số bức xạ nguyên tử. Đồng hồ nguyên tử được dùng để đo chính xác thời gian, xác định và phối hợp các múi giờ và các hệ thống giờ. Đặc biệt nó dùng để đo thời gian xác định khoảng cách vệ tinh trong các hệ thống định vị như GPS (hệ thống định vị toàn cầu).
(Baomoi)