Phát triển qua những chặng đường
Đã đăng vào 19/03/2014 lúc 10:34
Phần 4: Và phát triển qua những chặng đường
Lần theo tư liệu của các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ Nam bộ và những người yêu nghệ thuật Đờn ca tài tử, người ta có thể biết rằng, kể từ nửa cuối thế kỉ XIX tới nay, Đờn ca tài tử Nam bộ đã có một quá trình phát triển trên một trăm năm. Con số đó thật nhỏ nhoi so với lịch sử âm nhạc của một quốc gia đã có tuổi đời hàng ngàn năm. Mặc dù vậy, thể loại âm nhạc này đã có một sức phát triển thật đáng khâm phục, không chỉ bởi tốc độ phát triển nhanh chóng của nó, mà cả bởi sức chống chọi với bối cảnh khắc nghiệt mà nó phải đương đầu.
Đã từ rất lâu, Đờn ca tài tử vốn là một thể loại ca nhạc thế tục phổ biến rất rộng rãi trong đời sống thường ngày của người dân trên đất Nam bộ. Chính bởi được sinh ra và được ấp ủ, nuôi dưỡng trong lòng dân mà thể loại này trở thành phương tiện để bộc lộ nỗi lòng của người dân và có một sức phát triển vô cùng mãnh liệt. Ngay từ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, biết bao bài bản tài tử đã ra đời, khóc lên nỗi đau mất nước, cảnh mẹ mất con, vợ lìa chồng… Văn Thiên Tường của ông Trần Văn Thọ để tưởng nhớ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, ít lâu sau, khi nhà yêu nước này bị thực dân Pháp giết hại tại Mỹ Tho; Bát ngự của ông Ba Đợi sáng tác nhân dịp vua Thành Thái vào Sài Gòn (khoảng năm 1898-1899), để tỏ lòng ngưỡng vọng của nhân dân đối với quân vương – vì lòng tôn quân ái quốc, dẫu họ bị triều đình bỏ rơi trong cuộc chiến 1859-1894; Tứ bửu của ông Nhạc Khị diễn tả nỗi thương tâm cùng tột của con người sống trong cảnh nước mất nhà tan. Theo Trần Phước Thuận, khi sáng tác bản Ai tử kê (sau thường gọi là Ái tử kê Bạc Liêu) trong bộ tứ đó, tác giả của nó đã liên tưởng tới cái cảnh “chít chiu” của bầy gà con mất mẹ với cái cảnh Thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình Huế đầu hàng giặc bỏ mặc người dân bơ vơ đau khổ. Bản nhạc được đánh giá như “một nhạc phẩm tuyệt vời – điệu nhạc khi bổng khi trầm như oán như than, đã khắc hoạ được cái nỗi đoạn trường của người dân mất nước”.
Hai thập kỷ đầu thế kỷ XX, bởi chính là tiếng lòng của người dân, cho nên phong trào Đờn ca tài tử ngày càng lan rộng và phát triển mạnh mẽ khắp nơi – từ các thành đô sầm uất cho tới tận những vùng hoang vu vắng vẻ nhất như Đồng Tháp Mười, Rừng U Minh… Theo Đắc Nhẫn, ngay tại những vùng này, “trong những nếp nhà ấm cúng, đóng kín mít để tránh muỗi và khi bếp lửa khêu lên là tiếng đàn trỗi giọng, đó là giờ phút ấm lòng nhất. Vô phúc cho những ai còn ngờ vực, biểu lộ thái độ không nghiêm túc sẽ bị mời ra khỏi cửa một cách tàn nhẫn”.
Nhờ sự phát triển nhanh chóng của phong trào Đờn ca tài tử, chẳng những trình độ đờn ca của người nghệ nhân phát triển nhanh chóng mà trình độ thưởng thức âm nhạc của nhân dân cũng được nâng lên rất cao. Sau hoặc giữa những buổi hoà nhạc, thường có những cuộc thảo luận sôi nổi. Có những chính kiến khác nhau về vấn đề biểu diễn giữa những người già và người trẻ. Họ bàn tán về những kỹ thuật với một tinh thần bảo vệ và phát triển nghệ thuật như một nhiệm vụ. Còn nghệ nhân, “phải là tay cao siêu mà phải trải qua nhiều cuộc thử thách thi tài mới có đủ uy tín để tiếp thu đồ đệ”. Qua những bài viết trên các sách báo ở Nam bộ những thập kỷ đầu cho tới những thập kỷ 50-60 của thế kỷ XX cũng có thể cảm nhận rõ sự tinh thông về bộ môn nghệ thuật này của công chúng say mê cổ nhạc Nam bộ.
Nhờ sự giao lưu và thi đua giữa các môn phái tài tử miền Đông và miền Tây lúc bấy giờ đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Đờn ca tài tử – chẳng những về kỹ thuật đờn, ca, mà cả về phương diện ghi chép, hệ thống hoá, tu chỉnh những bản nhạc cổ, đào tạo những nghệ sỹ đờn ca, sáng tác, nhờ đó dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ của phong trào sáng tác mới theo lối cổ nhạc.
Ngoài 20 bản Tổ, còn phát triển thêm 8 bài Ngự, 10 bài Liên hoàn cùng vô vàn dị bản của chúng và rất nhiều bản mới do các nhạc sư, nghệ sỹ tài năng sáng tác, trong số đó có nhiều bản còn được lưu truyền cho tới nay cùng hàng trăm bài ca gắn với di sản âm nhạc phong phú đó. Từ lối sinh hoạt tri âm tri kỷ trong khuôn viên gia đình, chòm xóm, hoặc trên dòng nước lung linh bóng trăng, Đờn ca tài tử bước lên dưới ánh đèn lộng lẫy của sân khấu tân thời, sau đó nhanh chóng đổi mới cả về phương thức và hình thức trình diễn. Chỉ trong vòng trên dưới 10 năm, lối ca tứ đại oán “Bùi Kiệm – Nguyệt Nga” như có vấn đáp của cô Ba Đắc đã gợi ý cho sự sáng tạo từng bước hình thức ca ra bộ, rồi hát chập, hát lớp, cuối cùng dẫn tới sự hình thành một thể loại sân khấu kịch hát mới – thể loại kịch hát “vua”, có sức lan truyền mạnh mẽ nhất trong cả nước ở nửa cuối thế kỷ XX: hát cải lương, tức sân khấu cải lương. Trong suốt chặng đường trên nửa thế kỷ ấy, đờn ca tài tử phải đối mặt với những thách thức mới: sự bành trướng và sức hấp dẫn mãnh liệt của hát cải lương, và sau đó chẳng bao lâu, của tân nhạc (nhạc mới) Việt Nam. Bên cạnh đó là những trào lưu văn hoá nghệ thuật Âu Mỹ vẫn tiếp tục xâm nhập và ảnh hưởng không nhỏ tới tập quán, lối sống, thị hiếu… của người dân. Tuy nhiên, bất chấp tất cả Đờn ca tài tử vẫn tiếp tục con đường của mình: thích ứng với thời đại, sẵn sàng tiếp nhận cái mới để phát triển, nhưng kiên cường gìn giữ bản sắc cố hữu của mình. Nó tồn tại song song dưới cả hai hình thức – sinh hoạt thính phòng tri kỷ như thủa xưa và những hình thức trình diễn mới: trên sân khấu – trước đông đảo công chúng, hoặc tách biệt hẳn với công chúng qua phương thức thu – phát trên các phương tiện truyền thông mới du nhập và các đĩa hát… Đáng nể hơn nữa, nó đã không bị những hình thức hát mới thay thế hoặc làm lụi tàn. Trái lại, Đờn ca tài tử còn tiếp tục làm chỗ dựa vững chắc và là nguồn hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của sân khấu cải lương.
Theo sự bành trướng mạnh mẽ của sân khấu cải lương, cổ nhạc cùng những sáng tạo của giới tài tử Nam bộ đã được lan truyền ra khắp đất nước, thậm chí sang cả các nước láng giềng – nơi có Việt kiều sinh sống, rồi bằng nhiều con đường, được truyền bá tới tận những đất nước xa xôi khác. Cho tới nay, Đờn ca tài tử vẫn tồn tại ở các tỉnh Nam bộ như một nhu cầu tinh thần không thể thiếu của người dân. Nhiều bài bản của nó vẫn được truyền dạy ở các trường nghệ thuật, các lớp dạy tư của nghệ nhân, nghệ sỹ cả ba miền đất nước cũng như ở nước ngoài. Giới trẻ vẫn có những người theo học loại nghệ thuật tinh xảo này. Dẫu đã ngót trăm tuổi, nhạc sư danh tiếng Nguyễn Vĩnh Bảo vẫn tiếp tục tiếp nhận và trao truyền không mệt mỏi vốn cổ nhạc quý giá này cho học trò khắp bốn phương. Dẫu đã bước qua ngưỡng “thất thập cổ lai hy”, nhà nghiên cứu Trương Bỉnh Tòng vẫn miệt mài với những công trình nghiên cứu sâu sắc về cổ nhạc Nam bộ. Bên cạnh họ còn nhiều nghệ sỹ, nghệ nhân tài năng và các nhà nghiên cứu trẻ thuộc những thế hệ kế tiếp nhau cùng tiếp bước…
Theo kết quả bước đầu trong công tác kiểm kê nghệ thuật Đờn ca tài tử tại 14/21 tỉnh thành có Đờn ca tài tử hiện có 2019 Câu lạc bộ, 22643 thành viên tham gia, 2850 nhạc cụ trong các câu lạc bộ, 120 đầu tư liệu xuất bản phẩm về nghệ thuật Đờn ca tài tử. Ở mỗi tỉnh, mỗi địa phương loại hình sinh hoạt văn hoá này phát triển theo hướng của riêng mình nhưng nói chung đều khởi sắc.
Đờn ca tài tử Nam bộ vừa là món ăn tinh thần thường nhật của người dân bản địa, vừa là đặc sản địa phương thiết đãi du khách có dịp viếng thăm quê hương (Vĩnh Long). Các Câu lạc bộ Đờn ca tài tử còn phối hợp với Đài PT-TH thực hiện chương trình Đờn ca tài tử phát trên toàn tỉnh phục vụ người dân (Cà Mau).
Không chỉ xuất hiện ở những vùng miệt vườn sông nước, Đờn ca tài tử còn nở rộ giữa thành phố công nghiệp hiện đại (TP Hồ Chí Minh). Câu lạc bộ Đờn ca tài tử TP Hồ Chí Minh có mặt đông đủ các nghệ sĩ, nghệ nhân, soạn giả, danh cầm tên tuổi về đây vừa dạy, vừa làm cố vấn chuyên môn. Câu lạc bộ đã và đang làm một việc cơ bản nhất là muốn có phong trào, muốn có sự kế thừa và phát triển đúng đắn một loại hình âm nhạc, nghệ thuật của cha ông, trước tiên phải có học bởi nghệ thuật Đờn ca tài tử là một loại hình nghệ thuật đầy tính khoa học và sáng tạo, sáng tạo trong khoa học.
Trong những thập niên vừa qua, sự phát triển của Đờn ca tài tử Nam bộ là một thành tựu văn hóa không thể phủ nhận. Mặc dù không có những gánh hát “nổi đình, nổi đám” như ở TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cà Mau… nhưng tình cảm của những người dân ở các tỉnh Bình Dương, Tiền Giang, Hậu Giang…trên đất Nam bộ giành cho môn nghệ thuật này không thua kém bất cứ nơi đâu. Thành viên của các nhóm, các câu lạc bộ Đờn ca tài tử rất đa dạng, phong phú như trí thức, viên chức, công nhân, học sinh, sinh viên, tiểu thương, nông dân…vì Đờn ca tài tử rất gần gũi cuộc sống lao động, sản xuất của mọi giai tầng trong xã hội.
Có lẽ nhiều người không sống trong không gian văn hóa miền Nam khi nghe nhắc đến Đờn ca tài tử thường nghĩ rằng loại hình nghệ thuật này vừa kén người nghe, vừa chọn người chơi. Phải có mặt tại một buổi sinh hoạt Đờn ca tài tử mới thấy được sức sống mãnh liệt của nó thể hiện như thế nào. Già, trẻ, gái, trai, lao động, trí thức… tất cả đều xoay quanh tiếng đàn, tiếng hát. Niềm đam mê nghệ thuật đã xóa bỏ tất cả những ranh giới xã hội, gắn kết các thành viên lại với nhau. Tiếng hát mùi mẫn của tuổi già, hứng khởi của tuổi trẻ, có lúc trong sáng, hồn nhiên vui tươi cũng có lúc ai oán, nỉ non nghe não lòng. Ở nông thôn Nam bộ, việc biết Đờn ca tài tử như là lẽ đương nhiên. Trên đường đi cày, đi cấy, gặt lúa, nhất là khi chèo xuồng một mình trên sông rộng, hay chống xuồng ba lá thanh thoát giữa rừng rậm U Minh hoặc trong mênh mông đồng nước Tháp Mười, không ai giấu nổi tình cảm trắc ẩn riêng tư. Khi con người đối mặt với sự bao la, bát ngát của thiên nhiên Nam bộ thì khó ai mà kìm được cảm xúc, họ bất chợt trở thành người nghệ sỹ, ca lên những tiếng hát của tâm hồn, hòa mình vào muôn trùng sóng nước. Họ muốn phá vỡ khung cảnh tĩnh lặng đang bao trùm, với khung cảnh đó thì dù người biết hát hay không biết hát cũng phải cất lên những lời ca để vơi đi phần nào cảm xúc. Với sân khấu là cả một khoảng trời bao la, là những cánh đồng bát ngát và những dòng sông nặng trĩu phù sa, lời ca như nâng nhịp mái chèo, vung cao nhát cuốc, hòa vào làn sóng nước mênh mông. Và cứ thế thời gian trôi đi lời ca tiếng hát vẫn mãi theo bước người đi khai hoang mở cõi. “Ca riết, nghe riết đâm nghiền”, Đờn ca tài tử đi vào tâm hồn và “ăn vào máu” người dân Nam bộ một cách tự nhiên, bền bỉ đến lạ thường. Đó là tiếng nói của tình mẫu tử, tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi các bậc hiền tài đã góp công cho dân cho nước…
Đờn ca tài tử thực sự là một hiện tượng lớn của âm nhạc Việt Nam trong thời cận – hiện đại. Ở đó không chỉ có sự kế thừa, gìn giữ trong tinh thần tự tin, tự hào với di sản văn hóa nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, mà còn có sự tiếp nối và phát triển với sức năng động lớn lao – không ngừng đổi mới, tiếp thu và dân tộc hóa những yếu tố mới để thích ứng với thời đại. Đó không chỉ là một sản phẩm của văn hóa và con người Việt Nam, mà còn là một mẫu mực điển hình của sức sống Việt Nam trong thời cận – hiện đại, một tấm gương sáng cho muôn đời sau, không chỉ với nhạc cổ truyền mà cả giới nhạc mới, trong việc kế thừa, bảo tồn và phát triển để thích ứng với thời đại mới.
( Còn tiếp)